Cộng-đồng người Việt ở hải ngoại rõ rệt nhất ở Hoa-Kỳ, Úc, Đức, ... lúc đầu bị dân bản xứ nghi ngờ, kỳ thị, nhưng vẫn may mắn hơn những di dân những thập niên trước đó, thời người Việt đến từ 1975 được lợi thế những chính sách đa văn hoá, nên được sinh sống tự do theo truyền thống, sống như những ghetto nhưng một loại ghetto thời mới, ghetto mở, nghĩa là người Việt cũng để lại dấu ấn của Việt Nam nước gốc, song song với đời sống hội-nhập. Các khu thương mại mọc lên ở những thành phố đông người Việt mà thức ăn của người Việt cũng được đề cao nhiều chất lượng dinh dưỡng và tốt cho sức khoẻ con người[1].
Trong bài tổng quan này, chúng tôi trình bày sơ-lược một số lý-tưởng và lý-thuyết đã được phát biểu, xuất bản trong hơn 29 năm qua và sau đó đưa ra một số nhận xét trong viễn ảnh xây dựng một cộng đồng người Việt hải ngoại vừa lý tưởng vừa thực tế về văn hóa.
1. Lý tưởng và lý thuyết :
Phạm Kim Vinh ngay sau 1975 cho đến khi mất đã soạn 35 cuốn lịch-sử và bình luận chính trị, nhưng kết lại, phê-phán, chỉ trích, mạt sát thì nhiều, sử liệu thì có rải rác đó đây, nhưng tác-giả không có đưa ra được một lý thuyết riêng tư hoặc có cơ cấu hợp lý. Ông là người có lòng, có thể xem như đại diện tâm thức kẻ sĩ tự phong, tự hào nắm "chính nghĩa, lẽ phải, truyền thống, v.v.", rồi từ đó tự cho phép phê phán mọi người! Cuốn thứ 35 cũng là cuối cùng như một tiếng ta thán: Còn Cơ Hội Nào Cho Người Quốc-Gia[2].
Linh-mục Kim Định từng đưa ra chung cho người Việt hải ngoại vấn đề ý thức trách nhiệm, nhất là các tôn giáo đối với "quốc gia và quốc dân": còn nước mới còn đạo và nước sẽ mất ngày nào người Việt đem đầu tư hết tâm hồn mình ra ngoài và để lại cho nước nhà quá ít! Ông kêu gọi các tôn giáo phải ý thức sứ mạng thiêng liêng này mà đoàn kết và ra tay trước! Nếu một số tổ-chức chính trị hân hoan sự nhập cuộc này thì nhiều thành phần bảo thủ lại phản đối ông và nhiều lần chận đứng đề nghị để ông trình bày quan điểm!
Hoàng Văn Chí trong Duy Văn Sử Quan[3] như một truyền thừa và sứ điệp để lại cho các thế hệ sau, đã xét lại lịch-sử và văn-hoá Việt Nam từ nguồn gốc đến thời kỳ di dân sống ở hải-ngoại, đã "lập ngôn" nêu một ý thức hệ nhân văn để chống lại "tư duy" máy móc cũng như duy vật sử quan của cộng-sản. Theo ông, "văn-hoá là lợi khí đấu tranh để sinh tồn" (tr. 21), mà văn-hoá bản chất là giao-lưu, hội-nhập thay vì tự tôn dân-tộc, truyền thống trong khi đoàn-kết là phẩm tính tốt thời nhà Trần đã trở thành không tưởng, và "văn-hoá quyết định vận mệnh dân-tộc" (tr. 236). Một lý thuyết tự vệ văn-hoá và hội-nhập chính trị!
Nguyễn Ngọc Huy ngoài các vận động với các chính quyền các quốc gia tự do và với chính giới cũng như người Việt hải ngoại, đã xuất bản Chủ Nghĩa Dân-Tộc Sinh Tồn Yếu Lược (1990, ký Hùng Nguyên) mà căn bản tư duy chính trị đã được trình bày và xuất bản từ năm 1968 thời trong nước. Nguyễn Ngọc Huy đả phá hết mọi lý thuyết để đưa ra một chủ nghĩa chính trị mà tác giả cho rằng "hợp lý" cho dân-tộc Việt ! Dân-Tộc Sinh Tồn lấy cá nhân làm nền móng để từ đó xây dựng nên một hệ thống chính trị tức tổ chức từ dưới lên - cho là khác với thuyết Nho từ trên Thiên tử xuống dân (!). Ra ngoài nước, Nguyễn Ngọc Huy khai triển thuyết Dân-Tộc Sinh Tồn dung hòa tính dân tộc riêng tư với văn hóa quốc gia như truyền thống Nho giáo, khởi từ thuyết "dân-tộc sinh tồn" của Trương Tử Anh.
Có những nhóm hoặc tổ-chức kêu gọi mỗi mọi người làm chính trị làm cách-mạng chứ không phải riêng gì đảng nọ nhóm kia hoặc những cựu tướng lãnh, dân biểu, đảng trưởng,... với chương trình học hỏi lúc đầu để vững mạnh cá nhân và tài chánh[4].Người Dân ở Costa Mesa CA, một nhóm khác, trong một nhận định đã nhận xét rằng các tổ-chức và cá nhân người Việt ở hải ngoại cứ lo làm gì sau khi cộng-sản Việt Nam bị lật đổ mà không lo làm sao cho chế độ cộng-sản thay đổi hoặc sụp đổ. Quân sự, văn hóa, kinh-tế và chính trị là bốn phương tiện thiết yếu cho cuộc vận-động chính trị mà về chính trị thì phải thống nhất ý chí hành động, đoàn kết, có chính nghĩa dân-tộc, tức phải thuần nhất, thì mới cân bằng lực lượng để đối lại với cộng-sản Việt Nam. Do đó người viết kêu gọi đấu tranh ôn hoà, với ý thức nhân sự và có lực lượng chính trị trong một môi trường thuận lợi, mà theo ông như Tổ-chức Phục Hưng thì được nhưng không như nhóm Thông Luận[5].
Nguyễn Huy Hân đưa ra thuyết "Dòng Sống Việt", viết năm 1987 trước khi hỗ trợ Nguyễn Đan Quế. Dòng sống này theo ông vượt ngoài lãnh thổ : tư cách di dân tị nạn "hồn dân-tộc đã xuất khỏi hình hài vật thể bị quỉ ám và đang bàng bạc nơi cộng đồng người Việt tự di hải ngoại (...) đang bị nguy cơ đe dọa trầm trọng là "sự cuốn hút của lò hòa tan bản xứ (Melting Pot)", "bao gồm hàng trăm ngàn mạch nước ly tình yêu nhiễm độc chia rẽ hiện còn ô hợp" như ông hy vọng thế "phối kết lịch sử" của Dòng Sống Việt như một dòng hải lưu mạnh, người Việt muôn nơi sẽ thành một "hệ thống thần kinh nối kết các dòng sông này" nhưng phải tận diệt căn bệnh trầm kha thiếu đoàn kết và chuẩn bị thế vươn lên và sẵn sàng chờ thế phối kết lịch sử phát động!
Lý Đại Nguyên trước 1975 từng theo Duy-Dân và viết một số lý luận chính trị được người đương thời xem là "sáng giá"[6], ra hải-ngoại ông viết bình luận và quan điểm trên nhiều báo chí chính trị, cộng đồng và đã xuất-bản ba tuyển tập Việt Nam Dân-Tộc Bị Đọa Đày 1998, Tổng Thức Vận 2000 rồi Đề Cương Xây-Dựng Việt Nam 2003[7]. Lý thuyết gia họ Lý đề cao tôn giáo và nhu cầu của con người được chú trọng, khai triển. Theo ông, dân tộc Việt Nam trước nay bị đọa đày nhưng không uổng công và Hoa Kỳ cũng đã không thua Hà Nội thời 30-4-1975, vì cả hai đã góp phần đưa đến sự sụp đổ của chủ-nghĩa Cộng-sản 15 năm sau cũng như đã đem đến Tự Do Dân chủ Pháp trị[8].
Nguyễn Gia Kiểng với Tổ-Quốc Ăn Năn[9] xuất-bản sau nhiều vận-động chính trị không kết quả ngắn và trung hạn nhưng ông đã gây ý thức chính trị và một số lập trường của nhóm Thông Luận về hoà hợp hoà giải dân-tộc và dân-chủ đa nguyên cuối cùng đã được người Việt hải-ngoại và một số cựu dảng viên hay phản tỉnh trong và ngoài nước đón nhận. Với Tổ-quốc Ăn Năn, ông tìm hiểu và đưa ra trước dư luận (trí thức) một số cắt nghĩa về vấn-dề Việt Nam. Cộng-sản sống vì người Việt thiếu lòng yêu nước, vì theo tinh thần Nho học một cách mù quáng, không có tinh thần dân-tộc, quốc-gia mà lại đề cao triết lý ẩn dật, trốn tránh trách nhiệm!
Võ Văn Ái trong Luận Chiến Nước Ngoài[10], nhìn lại những bài học quá khứ và kết luận rằng lực lượng hải ngoại chủ yếu giải cứu Việt Nam là viện lực cứu nước. Võ Văn Ái muốn lập Diễn Đàn Dân-Chủ theo mô hình Công Đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan, chương trình Diễn Đàn 8 điểm và kêu gọi kêu gọi chống chia rẽ, để đoàn kết chung quanh "giải pháp mới cho Việt Nam". Đã không tiếng vang!
Nguyễn Cao Hách trong số những người trình bày giải pháp bằng chính trị dựa trên căn bản những định chế quốc tế, pháp trị. Trần Thanh Hiệp đặt vấn đề gây suy nghĩ tương lai dân-tộc đi về đâu trong khi theo ông nhận xét thì trong nước người cầm quyền cộng-sản áp đặt tư tưởng và định chế phi dân-tộc, trong khi đó người Việt ở ngoài nước cứ tiếp tục một đời sống không quốc gia !
Đoàn Viết Hoạt, Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần, v.v. viết và đi diễn thuyết nhiều nơi cho một Việt Nam tự do dân-chủ nhưng xét lại, trừu tượng, viễn mơ nhiều hơn vì thời gian cứ qua đi mà diễn văn vẫn như cũ, chỉ đổi ngày tháng thành diễn văn, hy vọng mới. Một số chính trị gia, lý thuyết gia salon khác (Phạm Nam Sách[11], Trần Bình Nam[12],...) hoặc quá lý-tưởng, hoặc đi trên mây, hoặc quá quá-khích, bạo động (ngôn ngữ, báo chợ, các diễn đàn internet, ...) hoặc góp phần tự hủy, về chiều,... Cũng vậy, nhiều người khác đua nhau ra lý thuyết để giải cứu Việt Nam nhưng phần lớn là những lý giải cá nhân từ một số biến cố, sự kiện hay nhân-vật, có khi chỉ là trò chơi chữ hoặc rỗng nội dung (Dọn Đường Về Nước, Giai Đoạn Mới Trên Chiến Trường Cũ (2001) của Nguyễn Hữu Nghĩa; Thế Kỷ của Nguyễn Văn Chức, Việt Nam Khát Vọng Dân-chủ Tự Do (2001) của Nguyễn Chí Thiệp, v.v.), ... Những cây bút bình luận chính trị, văn hóa thường gặp trên các báo của người Việt hải-ngoại (cũng như trên các diễn đàn Internet) : Nguyễn Ngọc Huy (+), Phạm Nam Sách (+), Đại Dương, Trần Bình Nam, Long Ân Lê Nguyên Long (+ 2003), Nguyễn Tiến Ích, Trần Viết Đại Hưng, Lâm Lễ Trinh, Lý Đại Nguyên, Ngô Nhân Dụng, Nguyễn Xuân Nghĩa, Phạm Trần, Nguyễn Quốc Cường, Tôn Thất Thiện, ...
Tóm lại, có hai khuynh hướng : lý thuyết gia (theorists) quá lý tưởng, hoặc nặng hành động (activists) quá cực đoan, nông nổi. Những nhà trí thức, khoa bảng nếu không đề cao một chính thuyết như của Lý Đông A, Tôn Dật Tiên, v.v. thì đưa ra lý thuyết riêng để cứu dân cứu nước. Tóm một chữ: tuyên ngôn, diễn văn chính trị trừu tượng, không nội dung, trùng hợp : “Mặt-Trận (X) long trọng chủ trương tiến hành cho đến thành công cuộc cách-mạng dân-tộc dân-chủ”, “triển khai được thế nhân dân (có sức mạnh) để thay đổi nhà cầm quyền”, “vận động toàn dân đứng lên chống đối chế độ cộng-sản”, v.v. Riêng Lý Tống nặng hành động ngoạn mục hơn lý thuyết nhưng cũng có lần đưa ra danh sách 8 giải pháp để giải thể chế độ cộng-sản Việt Nam[13]. Ghi nhận cuối : từ chống Cộng lúc đầu, cộng-đồng ở ngoài nước đã đi đến chỗ chống độc tài : Nguyễn Hữu Chung (+ 2004), Tôn Thất Thiện, Nguyễn Minh Cần, Bùi Tín, v.v.[14]
2. Văn hóa dân-tộc trong hơn 29 năm qua luôn được dùng như lý tưởng, mục đích, trong nhiều tuyên ngôn, cương lĩnh chính trị. Đại diện cho khuynh hướng truyền thống, giáo-sư Vũ Ký chẳng hạn đặt nặng vấn đề liêm chính, sĩ-khí và đoàn kết trong cuộc đấu tranh hiện tại của người Việt hải ngoại, xét theo quan điểm văn hóa. Theo ông đấu tranh chính trị trước hết phải phục hồi một số giá trị tinh thần[15]. Khiếu Đức Long trong tập Luận về Nền Văn hóa Tổng hợp của Dân tộâc Việt Nam thì đề nghị rằng "bài học của quá-khứ là tuyệt đối tránh vọng ngoại mù quáng" và "cởi mở để tiếp thu, nhưng phải chọn lọc, tránh a dua xu thời"[16]. Lịch sử cho thấy người Việt luôn vươn lên sống cho ra con người, luôn cập nhật đồng thời giữ gìn văn hóa, chí khí và bản sắc dân-tộc! Do đó, cần phân biệt phát huy bản sắc (văn-hoá + hội-nhập) với bảo tồn thủ cựu (chỉ có quá-khứ )! Hội-nhập hai văn-hoá chỉ làm tăng nhân cách và tăng trưởng truyền thống đẹp!
Một số tiếng nói bảo thủ quá khích lo sợ những người Việt hội-nhập hải-ngoại mà họ gọi là "tay sai Mỹ gốc Việt" ra tay hành thế. Lo sợ không căn gốc đảm bảo, cứ nhân danh dân-tộc thì ai nói sao cũng được, nhưng nhiều phe quá, kèn trống ngược nhau ! Đặc tính chung của sinh hoạt cộng-đồng chính là trạng thái văn hóa của cộng-đồng đó trong một giai-đoạn lịch sử. Hiện cộng-đồng người Việt hải ngoại về chính trị đang biến thái từ đối đầu sang cạnh tranh về phẩm, về cái đặc thù mà cả tập thể sau hơn một phần tư thế kỷ đã đạt được. Văn-hoá quan trọng và thiết yếu đối với người Việt, do đó các tổ-chức và đảng phái chính trị đều đề cao vai trò của văn-hoá cả trong việc vận-động chính trị cho một Việt Nam tương lai. Tổ-chức Phục Hưng trong tài liệu Cẩm Nang Thành Viên[17] đã khẳng định "văn-hoá là con đường cứu nước và dựng nước". Quan hệ chính trị và văn hóa mật thiết, đối với Việt Nam còn hơn nữa! Chuyện cấp thiết là phải thống nhất tình tự dân-tộc! Tinh thần Việt Nam vốn là nhân bản, sự sống còn mạnh mẽ, là những điều khiến dân-tộc Việt Nam thoát được những trói buộc của đô hộ và ngoại bang ! Như đã xét qua ở trên, cơ may đã và đang đến với dân-tộc Việt Nam : các thành phần từng chống đối nhau (cộng-sản, thân cộng, quốc gia, v.v.) đã đến gần và ngồi lại với nhau, chỉ còn chút nữa, đó là bỏ chia rẻ và phát triển tình tự dân-tộc là đồng thuận lớn!
Văn hóa tuổi trẻ thủ đắc ở đời sống hội-nhập và văn hóa đa diện (dân-chủ, kỹ thuật, vì sự thật, dám nói, không nể vì, v.v.) cần được đề cao và ảnh hưởng những cái gọi là căn bản truyền thống. Giới trẻ như đã trình bày, cũng chú tâm đến văn hóa. Các hội đoàn trẻ, các trại hè, các lớp tiếng Việt và các báo chí được xuất bản mục đích nhắm giới trẻ; làm một gạch nối thế hệ trung-trẻ hoặc hoàn toàn trẻ, thay vì lúc đầu cộng-đồng có khuynh hướng truyền thừa già-trẻ - mà thường theo quan niệm và phương cách người lớn.
Tương lai sẽ là vấn đề sống chung - nếu không là giải pháp chính trị thì sẽ vẫn đến tự nhiên vì người Việt nhất là giới trẻ hội-nhập có tiềm năng kinh-tế, trí thức và tối tân hoá, từ đó họ có thể giúp phát triển cộng-đồng hải ngoại và Việt Nam trong nước, đi vào toàn cầu hoá. Vấn-đề giao lưu văn-hoá tích cực, tự nhiên, thẳng thắn trong và ngoài nước, vẫn là một vấn-dề chỉ có thể giải quyết với thời gian. Ngoài có chống, có tiếp, trong nước khuyến khích đầu tư, hồi hương, nhưng chưa có chính sách hợp lý về văn-hoá, xã hội ! Đối với một số thì kinh tế thị trường là một phương tiện tốt vì sẽ dần thay đổi bản chất của chế độ trong nước, xã hội sẽ càng phân hoá và dân sẽ bớt sợ quyền uy của đảng. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ kinh tế trí thức, người Việt ở hải ngoại nằm trong đó nhưng liệu tâm lý, não trạng (mentality) đã sẵn sàng chưa? Vấn-đề văn hoá vận quan trọng khi giao lưu văn hoá đã trở nên không thể tránh, nhưng phải có phẩm chất [18]văn hóa, nâng cao phẩm giá con người, tức không như trong nước ngưng ở sản xuất những vidéo, phim ảnh giới thiệu hình ảnh quê hương và mời du lịch, và dù ca nhạc trẻ trung, mới, đa dạng hơn hải-ngoại. Mặt khác, nội dung không chỉ là chuyện luân lý truyền thống xử dụng lại tuyên truyền hy-vọng tâm phục người xem vì thật ra chính và tà rất tương đối, trong chính có tà và ngược lại - chính tà không đơn giản trơn tru một chiều như tuyên truyền chính trị!
Tóm lại, tập-thể người Việt hải ngoại muốn thoát được những bế tắc nhân tâm và chính trị hiện nay, người Việt phải thay đổi tư duy và dứt khoát, phải có tổ-chức, có văn hóa nhìn xa và có lòng tin! Văn-hoá ngoài phần đã thủ đắc, còn là động cơ cho phát triển khả năng và cập nhật thời đại! Trong nước chính quyền vẫn vậy, vẫn độc đoán, chuyên chính về chính trị dù có thay đổi kinh-tế, xã hội phần nào theo đường lối của Trung quốc; ở hải-ngoại thì cộng đồng người Việt khách quan mà nói, sức mạnh có phần yếu đi, tinh thần chống Cộng loảng dần đi.
Sự giải thoát nào cũng có những điều kiện của nó, đòi hỏi tất cả mọi người, không phân biệt chính kiến trong quá khứ và hiện tại, trong cũng như ngoài nước, phải tự giải thoát khỏi vòng luẩn quẩn của não trạng phục tùng, của thói quen nô lệ, của sự thiếu tự tin. Một giải thoát bằng sức riêng của mình, bằng lý trí, bằng tổ chức khoa học, một loại văn hóa tổ-chức thay vì theo cảm tính hoặc bằng nông nỗi cực đoan. Bỏ đấu tranh vì quyền lợi, danh vọng để tranh đấu vì bổn phận và lương tri.
Sự giải thoát đó đã bắt đầu ở trong nước với những phong trào lực lượng đòi nhân quyền, dân chủ, tự do. Vai trò của người Việt có lòng ở hải ngoại hỗ trợ, tiếp lửa cho trong nước cũng rất quan trọng; tuy nhiên quyết định và hành động chủ lực vẫn do người dân trong nước. Dân tộc đứng trên mọi tranh chấp đoản kỳ, mọi chủ nghĩa giai đoạn, trên mọi mặt trận, liên minh, trên cả mọi tham vọng cá nhân hoặc tập đoàn thiểu số. Phục vụ dân tộc tức là tin vào lẽ phải và tương lai, tin vào lý tưởng dân tộc và con người sẽ chiến thắng!
Cuộc đấu tranh của dân tộc Việt-Nam hiện nay là trách nhiệm của mọi người, nhất là những người đã nhìn thấy bế tắc của những cực đoan. Quá khứ là việc của lịch sử, tương lai phải là của dân tộc! Người Việt hải ngoại đã quá mất nhiều thì giờ đi tìm giải pháp vì việc chính trước mắt là xây dựng một cộng đồng hải ngoại có thực lực, sống động, đặc thù hoặc Việt, rồi mới tính chuyện xây đắp cho đất nước gốc thật sự tự do dân chủ và giàu mạnh!
Nguyễn Vy Khanh
(Báo Quốc Dân)
Văn hóa dân-tộc và người Việt hải ngoại |
1. Lý tưởng và lý thuyết :
Phạm Kim Vinh ngay sau 1975 cho đến khi mất đã soạn 35 cuốn lịch-sử và bình luận chính trị, nhưng kết lại, phê-phán, chỉ trích, mạt sát thì nhiều, sử liệu thì có rải rác đó đây, nhưng tác-giả không có đưa ra được một lý thuyết riêng tư hoặc có cơ cấu hợp lý. Ông là người có lòng, có thể xem như đại diện tâm thức kẻ sĩ tự phong, tự hào nắm "chính nghĩa, lẽ phải, truyền thống, v.v.", rồi từ đó tự cho phép phê phán mọi người! Cuốn thứ 35 cũng là cuối cùng như một tiếng ta thán: Còn Cơ Hội Nào Cho Người Quốc-Gia[2].
Linh-mục Kim Định từng đưa ra chung cho người Việt hải ngoại vấn đề ý thức trách nhiệm, nhất là các tôn giáo đối với "quốc gia và quốc dân": còn nước mới còn đạo và nước sẽ mất ngày nào người Việt đem đầu tư hết tâm hồn mình ra ngoài và để lại cho nước nhà quá ít! Ông kêu gọi các tôn giáo phải ý thức sứ mạng thiêng liêng này mà đoàn kết và ra tay trước! Nếu một số tổ-chức chính trị hân hoan sự nhập cuộc này thì nhiều thành phần bảo thủ lại phản đối ông và nhiều lần chận đứng đề nghị để ông trình bày quan điểm!
Hoàng Văn Chí trong Duy Văn Sử Quan[3] như một truyền thừa và sứ điệp để lại cho các thế hệ sau, đã xét lại lịch-sử và văn-hoá Việt Nam từ nguồn gốc đến thời kỳ di dân sống ở hải-ngoại, đã "lập ngôn" nêu một ý thức hệ nhân văn để chống lại "tư duy" máy móc cũng như duy vật sử quan của cộng-sản. Theo ông, "văn-hoá là lợi khí đấu tranh để sinh tồn" (tr. 21), mà văn-hoá bản chất là giao-lưu, hội-nhập thay vì tự tôn dân-tộc, truyền thống trong khi đoàn-kết là phẩm tính tốt thời nhà Trần đã trở thành không tưởng, và "văn-hoá quyết định vận mệnh dân-tộc" (tr. 236). Một lý thuyết tự vệ văn-hoá và hội-nhập chính trị!
Nguyễn Ngọc Huy ngoài các vận động với các chính quyền các quốc gia tự do và với chính giới cũng như người Việt hải ngoại, đã xuất bản Chủ Nghĩa Dân-Tộc Sinh Tồn Yếu Lược (1990, ký Hùng Nguyên) mà căn bản tư duy chính trị đã được trình bày và xuất bản từ năm 1968 thời trong nước. Nguyễn Ngọc Huy đả phá hết mọi lý thuyết để đưa ra một chủ nghĩa chính trị mà tác giả cho rằng "hợp lý" cho dân-tộc Việt ! Dân-Tộc Sinh Tồn lấy cá nhân làm nền móng để từ đó xây dựng nên một hệ thống chính trị tức tổ chức từ dưới lên - cho là khác với thuyết Nho từ trên Thiên tử xuống dân (!). Ra ngoài nước, Nguyễn Ngọc Huy khai triển thuyết Dân-Tộc Sinh Tồn dung hòa tính dân tộc riêng tư với văn hóa quốc gia như truyền thống Nho giáo, khởi từ thuyết "dân-tộc sinh tồn" của Trương Tử Anh.
Có những nhóm hoặc tổ-chức kêu gọi mỗi mọi người làm chính trị làm cách-mạng chứ không phải riêng gì đảng nọ nhóm kia hoặc những cựu tướng lãnh, dân biểu, đảng trưởng,... với chương trình học hỏi lúc đầu để vững mạnh cá nhân và tài chánh[4].Người Dân ở Costa Mesa CA, một nhóm khác, trong một nhận định đã nhận xét rằng các tổ-chức và cá nhân người Việt ở hải ngoại cứ lo làm gì sau khi cộng-sản Việt Nam bị lật đổ mà không lo làm sao cho chế độ cộng-sản thay đổi hoặc sụp đổ. Quân sự, văn hóa, kinh-tế và chính trị là bốn phương tiện thiết yếu cho cuộc vận-động chính trị mà về chính trị thì phải thống nhất ý chí hành động, đoàn kết, có chính nghĩa dân-tộc, tức phải thuần nhất, thì mới cân bằng lực lượng để đối lại với cộng-sản Việt Nam. Do đó người viết kêu gọi đấu tranh ôn hoà, với ý thức nhân sự và có lực lượng chính trị trong một môi trường thuận lợi, mà theo ông như Tổ-chức Phục Hưng thì được nhưng không như nhóm Thông Luận[5].
Nguyễn Huy Hân đưa ra thuyết "Dòng Sống Việt", viết năm 1987 trước khi hỗ trợ Nguyễn Đan Quế. Dòng sống này theo ông vượt ngoài lãnh thổ : tư cách di dân tị nạn "hồn dân-tộc đã xuất khỏi hình hài vật thể bị quỉ ám và đang bàng bạc nơi cộng đồng người Việt tự di hải ngoại (...) đang bị nguy cơ đe dọa trầm trọng là "sự cuốn hút của lò hòa tan bản xứ (Melting Pot)", "bao gồm hàng trăm ngàn mạch nước ly tình yêu nhiễm độc chia rẽ hiện còn ô hợp" như ông hy vọng thế "phối kết lịch sử" của Dòng Sống Việt như một dòng hải lưu mạnh, người Việt muôn nơi sẽ thành một "hệ thống thần kinh nối kết các dòng sông này" nhưng phải tận diệt căn bệnh trầm kha thiếu đoàn kết và chuẩn bị thế vươn lên và sẵn sàng chờ thế phối kết lịch sử phát động!
Lý Đại Nguyên trước 1975 từng theo Duy-Dân và viết một số lý luận chính trị được người đương thời xem là "sáng giá"[6], ra hải-ngoại ông viết bình luận và quan điểm trên nhiều báo chí chính trị, cộng đồng và đã xuất-bản ba tuyển tập Việt Nam Dân-Tộc Bị Đọa Đày 1998, Tổng Thức Vận 2000 rồi Đề Cương Xây-Dựng Việt Nam 2003[7]. Lý thuyết gia họ Lý đề cao tôn giáo và nhu cầu của con người được chú trọng, khai triển. Theo ông, dân tộc Việt Nam trước nay bị đọa đày nhưng không uổng công và Hoa Kỳ cũng đã không thua Hà Nội thời 30-4-1975, vì cả hai đã góp phần đưa đến sự sụp đổ của chủ-nghĩa Cộng-sản 15 năm sau cũng như đã đem đến Tự Do Dân chủ Pháp trị[8].
Nguyễn Gia Kiểng với Tổ-Quốc Ăn Năn[9] xuất-bản sau nhiều vận-động chính trị không kết quả ngắn và trung hạn nhưng ông đã gây ý thức chính trị và một số lập trường của nhóm Thông Luận về hoà hợp hoà giải dân-tộc và dân-chủ đa nguyên cuối cùng đã được người Việt hải-ngoại và một số cựu dảng viên hay phản tỉnh trong và ngoài nước đón nhận. Với Tổ-quốc Ăn Năn, ông tìm hiểu và đưa ra trước dư luận (trí thức) một số cắt nghĩa về vấn-dề Việt Nam. Cộng-sản sống vì người Việt thiếu lòng yêu nước, vì theo tinh thần Nho học một cách mù quáng, không có tinh thần dân-tộc, quốc-gia mà lại đề cao triết lý ẩn dật, trốn tránh trách nhiệm!
Võ Văn Ái trong Luận Chiến Nước Ngoài[10], nhìn lại những bài học quá khứ và kết luận rằng lực lượng hải ngoại chủ yếu giải cứu Việt Nam là viện lực cứu nước. Võ Văn Ái muốn lập Diễn Đàn Dân-Chủ theo mô hình Công Đoàn Đoàn Kết ở Ba Lan, chương trình Diễn Đàn 8 điểm và kêu gọi kêu gọi chống chia rẽ, để đoàn kết chung quanh "giải pháp mới cho Việt Nam". Đã không tiếng vang!
Nguyễn Cao Hách trong số những người trình bày giải pháp bằng chính trị dựa trên căn bản những định chế quốc tế, pháp trị. Trần Thanh Hiệp đặt vấn đề gây suy nghĩ tương lai dân-tộc đi về đâu trong khi theo ông nhận xét thì trong nước người cầm quyền cộng-sản áp đặt tư tưởng và định chế phi dân-tộc, trong khi đó người Việt ở ngoài nước cứ tiếp tục một đời sống không quốc gia !
Đoàn Viết Hoạt, Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần, v.v. viết và đi diễn thuyết nhiều nơi cho một Việt Nam tự do dân-chủ nhưng xét lại, trừu tượng, viễn mơ nhiều hơn vì thời gian cứ qua đi mà diễn văn vẫn như cũ, chỉ đổi ngày tháng thành diễn văn, hy vọng mới. Một số chính trị gia, lý thuyết gia salon khác (Phạm Nam Sách[11], Trần Bình Nam[12],...) hoặc quá lý-tưởng, hoặc đi trên mây, hoặc quá quá-khích, bạo động (ngôn ngữ, báo chợ, các diễn đàn internet, ...) hoặc góp phần tự hủy, về chiều,... Cũng vậy, nhiều người khác đua nhau ra lý thuyết để giải cứu Việt Nam nhưng phần lớn là những lý giải cá nhân từ một số biến cố, sự kiện hay nhân-vật, có khi chỉ là trò chơi chữ hoặc rỗng nội dung (Dọn Đường Về Nước, Giai Đoạn Mới Trên Chiến Trường Cũ (2001) của Nguyễn Hữu Nghĩa; Thế Kỷ của Nguyễn Văn Chức, Việt Nam Khát Vọng Dân-chủ Tự Do (2001) của Nguyễn Chí Thiệp, v.v.), ... Những cây bút bình luận chính trị, văn hóa thường gặp trên các báo của người Việt hải-ngoại (cũng như trên các diễn đàn Internet) : Nguyễn Ngọc Huy (+), Phạm Nam Sách (+), Đại Dương, Trần Bình Nam, Long Ân Lê Nguyên Long (+ 2003), Nguyễn Tiến Ích, Trần Viết Đại Hưng, Lâm Lễ Trinh, Lý Đại Nguyên, Ngô Nhân Dụng, Nguyễn Xuân Nghĩa, Phạm Trần, Nguyễn Quốc Cường, Tôn Thất Thiện, ...
Tóm lại, có hai khuynh hướng : lý thuyết gia (theorists) quá lý tưởng, hoặc nặng hành động (activists) quá cực đoan, nông nổi. Những nhà trí thức, khoa bảng nếu không đề cao một chính thuyết như của Lý Đông A, Tôn Dật Tiên, v.v. thì đưa ra lý thuyết riêng để cứu dân cứu nước. Tóm một chữ: tuyên ngôn, diễn văn chính trị trừu tượng, không nội dung, trùng hợp : “Mặt-Trận (X) long trọng chủ trương tiến hành cho đến thành công cuộc cách-mạng dân-tộc dân-chủ”, “triển khai được thế nhân dân (có sức mạnh) để thay đổi nhà cầm quyền”, “vận động toàn dân đứng lên chống đối chế độ cộng-sản”, v.v. Riêng Lý Tống nặng hành động ngoạn mục hơn lý thuyết nhưng cũng có lần đưa ra danh sách 8 giải pháp để giải thể chế độ cộng-sản Việt Nam[13]. Ghi nhận cuối : từ chống Cộng lúc đầu, cộng-đồng ở ngoài nước đã đi đến chỗ chống độc tài : Nguyễn Hữu Chung (+ 2004), Tôn Thất Thiện, Nguyễn Minh Cần, Bùi Tín, v.v.[14]
2. Văn hóa dân-tộc trong hơn 29 năm qua luôn được dùng như lý tưởng, mục đích, trong nhiều tuyên ngôn, cương lĩnh chính trị. Đại diện cho khuynh hướng truyền thống, giáo-sư Vũ Ký chẳng hạn đặt nặng vấn đề liêm chính, sĩ-khí và đoàn kết trong cuộc đấu tranh hiện tại của người Việt hải ngoại, xét theo quan điểm văn hóa. Theo ông đấu tranh chính trị trước hết phải phục hồi một số giá trị tinh thần[15]. Khiếu Đức Long trong tập Luận về Nền Văn hóa Tổng hợp của Dân tộâc Việt Nam thì đề nghị rằng "bài học của quá-khứ là tuyệt đối tránh vọng ngoại mù quáng" và "cởi mở để tiếp thu, nhưng phải chọn lọc, tránh a dua xu thời"[16]. Lịch sử cho thấy người Việt luôn vươn lên sống cho ra con người, luôn cập nhật đồng thời giữ gìn văn hóa, chí khí và bản sắc dân-tộc! Do đó, cần phân biệt phát huy bản sắc (văn-hoá + hội-nhập) với bảo tồn thủ cựu (chỉ có quá-khứ )! Hội-nhập hai văn-hoá chỉ làm tăng nhân cách và tăng trưởng truyền thống đẹp!
Một số tiếng nói bảo thủ quá khích lo sợ những người Việt hội-nhập hải-ngoại mà họ gọi là "tay sai Mỹ gốc Việt" ra tay hành thế. Lo sợ không căn gốc đảm bảo, cứ nhân danh dân-tộc thì ai nói sao cũng được, nhưng nhiều phe quá, kèn trống ngược nhau ! Đặc tính chung của sinh hoạt cộng-đồng chính là trạng thái văn hóa của cộng-đồng đó trong một giai-đoạn lịch sử. Hiện cộng-đồng người Việt hải ngoại về chính trị đang biến thái từ đối đầu sang cạnh tranh về phẩm, về cái đặc thù mà cả tập thể sau hơn một phần tư thế kỷ đã đạt được. Văn-hoá quan trọng và thiết yếu đối với người Việt, do đó các tổ-chức và đảng phái chính trị đều đề cao vai trò của văn-hoá cả trong việc vận-động chính trị cho một Việt Nam tương lai. Tổ-chức Phục Hưng trong tài liệu Cẩm Nang Thành Viên[17] đã khẳng định "văn-hoá là con đường cứu nước và dựng nước". Quan hệ chính trị và văn hóa mật thiết, đối với Việt Nam còn hơn nữa! Chuyện cấp thiết là phải thống nhất tình tự dân-tộc! Tinh thần Việt Nam vốn là nhân bản, sự sống còn mạnh mẽ, là những điều khiến dân-tộc Việt Nam thoát được những trói buộc của đô hộ và ngoại bang ! Như đã xét qua ở trên, cơ may đã và đang đến với dân-tộc Việt Nam : các thành phần từng chống đối nhau (cộng-sản, thân cộng, quốc gia, v.v.) đã đến gần và ngồi lại với nhau, chỉ còn chút nữa, đó là bỏ chia rẻ và phát triển tình tự dân-tộc là đồng thuận lớn!
Văn hóa tuổi trẻ thủ đắc ở đời sống hội-nhập và văn hóa đa diện (dân-chủ, kỹ thuật, vì sự thật, dám nói, không nể vì, v.v.) cần được đề cao và ảnh hưởng những cái gọi là căn bản truyền thống. Giới trẻ như đã trình bày, cũng chú tâm đến văn hóa. Các hội đoàn trẻ, các trại hè, các lớp tiếng Việt và các báo chí được xuất bản mục đích nhắm giới trẻ; làm một gạch nối thế hệ trung-trẻ hoặc hoàn toàn trẻ, thay vì lúc đầu cộng-đồng có khuynh hướng truyền thừa già-trẻ - mà thường theo quan niệm và phương cách người lớn.
Tương lai sẽ là vấn đề sống chung - nếu không là giải pháp chính trị thì sẽ vẫn đến tự nhiên vì người Việt nhất là giới trẻ hội-nhập có tiềm năng kinh-tế, trí thức và tối tân hoá, từ đó họ có thể giúp phát triển cộng-đồng hải ngoại và Việt Nam trong nước, đi vào toàn cầu hoá. Vấn-đề giao lưu văn-hoá tích cực, tự nhiên, thẳng thắn trong và ngoài nước, vẫn là một vấn-dề chỉ có thể giải quyết với thời gian. Ngoài có chống, có tiếp, trong nước khuyến khích đầu tư, hồi hương, nhưng chưa có chính sách hợp lý về văn-hoá, xã hội ! Đối với một số thì kinh tế thị trường là một phương tiện tốt vì sẽ dần thay đổi bản chất của chế độ trong nước, xã hội sẽ càng phân hoá và dân sẽ bớt sợ quyền uy của đảng. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ kinh tế trí thức, người Việt ở hải ngoại nằm trong đó nhưng liệu tâm lý, não trạng (mentality) đã sẵn sàng chưa? Vấn-đề văn hoá vận quan trọng khi giao lưu văn hoá đã trở nên không thể tránh, nhưng phải có phẩm chất [18]văn hóa, nâng cao phẩm giá con người, tức không như trong nước ngưng ở sản xuất những vidéo, phim ảnh giới thiệu hình ảnh quê hương và mời du lịch, và dù ca nhạc trẻ trung, mới, đa dạng hơn hải-ngoại. Mặt khác, nội dung không chỉ là chuyện luân lý truyền thống xử dụng lại tuyên truyền hy-vọng tâm phục người xem vì thật ra chính và tà rất tương đối, trong chính có tà và ngược lại - chính tà không đơn giản trơn tru một chiều như tuyên truyền chính trị!
Tóm lại, tập-thể người Việt hải ngoại muốn thoát được những bế tắc nhân tâm và chính trị hiện nay, người Việt phải thay đổi tư duy và dứt khoát, phải có tổ-chức, có văn hóa nhìn xa và có lòng tin! Văn-hoá ngoài phần đã thủ đắc, còn là động cơ cho phát triển khả năng và cập nhật thời đại! Trong nước chính quyền vẫn vậy, vẫn độc đoán, chuyên chính về chính trị dù có thay đổi kinh-tế, xã hội phần nào theo đường lối của Trung quốc; ở hải-ngoại thì cộng đồng người Việt khách quan mà nói, sức mạnh có phần yếu đi, tinh thần chống Cộng loảng dần đi.
Sự giải thoát nào cũng có những điều kiện của nó, đòi hỏi tất cả mọi người, không phân biệt chính kiến trong quá khứ và hiện tại, trong cũng như ngoài nước, phải tự giải thoát khỏi vòng luẩn quẩn của não trạng phục tùng, của thói quen nô lệ, của sự thiếu tự tin. Một giải thoát bằng sức riêng của mình, bằng lý trí, bằng tổ chức khoa học, một loại văn hóa tổ-chức thay vì theo cảm tính hoặc bằng nông nỗi cực đoan. Bỏ đấu tranh vì quyền lợi, danh vọng để tranh đấu vì bổn phận và lương tri.
Sự giải thoát đó đã bắt đầu ở trong nước với những phong trào lực lượng đòi nhân quyền, dân chủ, tự do. Vai trò của người Việt có lòng ở hải ngoại hỗ trợ, tiếp lửa cho trong nước cũng rất quan trọng; tuy nhiên quyết định và hành động chủ lực vẫn do người dân trong nước. Dân tộc đứng trên mọi tranh chấp đoản kỳ, mọi chủ nghĩa giai đoạn, trên mọi mặt trận, liên minh, trên cả mọi tham vọng cá nhân hoặc tập đoàn thiểu số. Phục vụ dân tộc tức là tin vào lẽ phải và tương lai, tin vào lý tưởng dân tộc và con người sẽ chiến thắng!
Cuộc đấu tranh của dân tộc Việt-Nam hiện nay là trách nhiệm của mọi người, nhất là những người đã nhìn thấy bế tắc của những cực đoan. Quá khứ là việc của lịch sử, tương lai phải là của dân tộc! Người Việt hải ngoại đã quá mất nhiều thì giờ đi tìm giải pháp vì việc chính trước mắt là xây dựng một cộng đồng hải ngoại có thực lực, sống động, đặc thù hoặc Việt, rồi mới tính chuyện xây đắp cho đất nước gốc thật sự tự do dân chủ và giàu mạnh!
Nguyễn Vy Khanh
(Báo Quốc Dân)
Tin tức Hàng Ngày - Trang Thông Tin Đa Chiều. Tất cả bài đăng tải trên thể hiện quan điểm riêng và cách hành văn của tác giả có thể gây ra những tranh luận đa chiều và trái chiều Tin tức Hàng Ngày mong nhận được ý kiến phản hồi và phản biện của độc giả
Đăng nhận xét